Bình luận Bàn về khái niệm “ glocalization là gì ? định nghĩa, ví dụ, giải thích là chủ đề trong nội dung hiện tại của Lễ Hội Phượng Hoàng. Tham khảo bài viết để biết đầy đủ nhé.
Toàn cầu hóa hiện nay không còn là một xu thế mà đã trở thành một hiện thực đang ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia, làm giảm đi độ khép kín và đưa tất cả vào chung một hệ thống bao gồm những phân hệ gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau cả về kinh tế, công nghệ và văn hóa trong một “ngôi làng toàn cầu”.
Bạn đang xem: Glocalization là gì
Truyền hình là một trong những phương tiện của quá trình toàn cầu hóa đồng thời là một trong những biểu hiện rõ nét của toàn cầu hóa trong lĩnh vực văn hóa và truyền thông.
Gần đây, khi hàng loạt các chương trình truyền hình thực tế (THTT) có định dạng (format) từ các chương trình reality show gốc từ nước ngoài được phát sóng khá nhiều trên hệ thống truyền hình Việt Nam trong đó có Đài Truyền hình TP. HCM (HTV), thu hút một số lượng đông đảo khán giả thì dư luận cũng đã bắt đầu nhắc lại những nguy cơ về mất bản sắc. Có phải toàn cầu hóa trong lĩnh vực truyền hình chỉ đem đến những thách thức cho văn hóa bản địa? Làm thế nào để các chương trình truyền hình trong đó có các chương trình THTT thật sự trở thành những món ăn tinh thần vừa bổ ích vừa thúc đẩy hội nhập văn hóa toàn cầu?
Để trả lời những câu hỏi đó thì việc nghiên cứu truyền hình, đặc biệt là nghiên cứu những thể loại truyền hình mới có định dạng từ các nước phương Tây trong bối cảnh toàn cầu hóa là một việc làm cần thiết vì sẽ đem lại sự hiểu biết toàn diện và khách quan đối với những hiện tượng văn hóa mang tính thời đại, góp phần đưa công chúng Việt nam tiếp cận với những thành tựu về văn hóa, nghệ thuật của toàn thế giới. Mặt khác, việc xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa giao lưu, hội nhập với bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc sẽ mở đường cho văn hóa phát triển (Nguyễn Chí Bền (Cb) 2010: 138), vừa đáp ứng được nhu cầu của công chúng Việt Nam vừa có cơ hội vươn xa ra thế giới trong môi trường toàn cầu hóa đa chiều. Khái niệm mới “glocalization” trong nghiên cứu truyền thông thế giới tỏ ra thích hợp hơn hết với tình hình phát triển truyền hình ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Glocalization (“bản địa hóa”) trong mối tương tác với Globalization (toàn cầu hóa)
Toàn cầu hóa là một quá trình mang tính quy luật cho nên những quan điểm biện chứng về tính hiện thực của toàn cầu hóa trong lĩnh vực văn hóa nói chung và truyền thông đại chúng nói riêng của Chủ nghĩa Mác-Lê nin và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam là phù hợp với xu thế của thời đại và tương đồng với những quan điểm tích cực của các học giả tiên phong trên thế giới trong nghiên cứu khía cạnh toàn cầu hóa của truyền thông đại chúng.
Một trong những người góp phần quan trọng trong việc hình thành khái niệm khoa học cho xu hướng toàn cầu hóa và sau đó là khái niệm “Glocalization” là nhà xã hội học Roland Robertson người Scotland. Robertson đã áp dụng khái niệm Glocalization trong marketing vào nghiên cứu toàn cầu hóa truyền thông và dùng khái niệm này để chỉ việc sản xuất mang tính toàn cầu của một sản phẩm truyền thông xuất phát từ một địa phương nào đó và việc bản địa hóa một sản phẩm đã được toàn cầu hóa, theo đó trong bất cứ trường hợp nào, sự nhấn mạnh vào tính dị biệt và đa dạng có thể được hiểu như là sự biểu hiện tính toàn cầu đang gia tăng. “Điều đó có nghĩa là việc mong muốn bày tỏ bản sắc luôn gắn liền với quá trình toàn cầu hóa” (Robertson 1992: 175).
Khái niệm “glocalization” được ghép từ “globalization” (toàn cầu hóa) và “localization” (địa phương hóa) được các nhà kinh tế học Nhật Bản sử dụng trong thập niên 1980 để chỉ sự gia tăng yếu tố địa phương trong các sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng thế giới. Tại Nhật Bản, khái niệm này xuất phát từ việc áp dụng các kỹ thuật canh tác tiên tiến trên thế giới phù hợp với điều kiện Nhật Bản và được người Nhật gọi là dochakuka.
Roland Robertson là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “glocalization” (trong kinh doanh có nghĩa là “tầm nhìn toàn cầu được áp dụng cho các điều kiện địa phương”) vào lĩnh vực nghiên cứu xã hội học truyền thông. Ông cho rằng yếu tố địa phương vốn gắn chặt với quá trình toàn cầu hóa và được nhận ra một cách chính xác thông qua các biểu hiện đặc biệt (thường được gọi là bản sắc). Do Robertson phát triển khái niệm “glocalization” trước khi THTT bước vào thời hoàng kim nên ông chủ yếu thiên về các chiến lược đa dạng của các công ty đa quốc gia giới thiệu các sản phẩm toàn cầu của họ với các đặc điểm văn hóa của địa phương mà sản phẩm hướng tới. Tuy nhiên thuật ngữ này sau đó đã được khu biệt chủ yếu trong việc nghiên cứu truyền thông và được sử dụng khi đề cập đến hoạt động mua bán các định dạng chương trình truyền hình.
Ở khía cạnh này, Silvio Waisbord cũng cùng chung quan điểm với Robertson khi giải thích sự phổ biến của một định dạng THTT nào đó trên thế giới là do tính chất kép của nó khi kết hợp giữa công nghệ và chiến lược sản xuất toàn cầu với những nét dị biệt của thị hiếu công chúng địa phương. Theo Waisbord, “sự phổ biến rộng rãi của các định dạng truyền hình thể hiện một xu hướng luôn luôn cần những sản phẩm đỉnh cao và mong muốn làm theo. Nó bộc lộ hai hướng phát triển chủ đạo trong truyền hình đương đại: sự toàn cầu hóa phương thức kinh doanh truyền hình và nỗ lực của các nhà sản xuất chương trình quốc tế cũng như nội địa nhằm gắn kết với các nền văn hóa quốc gia”
Trong khi các định dạng truyền hình nổi tiếng gần như thoát khỏi các đặc trưng văn hóa để để tăng tính toàn cầu thì các phiên bản được làm lại ở các nước thường được “đổ khuôn” bằng các đặc trưng văn hóa gắn liền với bản sắc dân tộc. Và như vậy, các định dạng truyền hình toàn cầu có thể giữ một vai trò năng động trong quá trình kết nối các yếu tố bản sắc dân tộc, cung cấp chỗ đứng cho các nền văn hóa quốc gia và có lẽ quan trọng hơn là tạo cơ hội cho khán giả tự nhận ra vai trò thành viên của mình trong cộng đồng dân tộc (Waisbord 2004: 372).
Vấn đề “bản địa hóa” (glocalization) các chương trình truyền hình thực tế trên sóng HTV
Thuật ngữ “glocalization” vẫn chưa có từ tiếng Việt tương đương nên trong bài viết này chúng tôi xin đề xuất từ “bản địa hóa” mà một số tác giả đã dùng để chuyển ngữ khái niệm này trong việc thay đổi và bổ sung cho các định dạng THTT nhằm phù hợp với văn hóa Việt Nam. Trong khi nghiên cứu việc thay đổi và bổ sung này đối với các định dạng THTT được mua bản quyền để sản xuất và phát sóng trên HTV, với vai trò thẩm định, chỉnh lý và bằng phương pháp quan sát tham dự, chúng tôi nhận thấy các lưu ý về khác biệt văn hóa sau đây đóng vai trò chính trong quá trình bản địa hóa các phiên bản Việt Nam: ý thức tập thể đối lập với tự do cá nhân, tư tưởng dân chủ ở phương Đông khác với tư tưởng dân chủ kiểu phương Tây, quan điểm xem truyền hình là công cụ giáo dục định hướng hơn là phương tiện giải trí thuần túy, thái độ chia sẻ của cộng đồng với khó khăn của các cá nhân…
Hầu hết các chương trình THTT khi được bản địa hóa để sản xuất và phát sóng trên HTV ít nhiều đều có chú ý đến những khác biệt văn hóa vừa kể. Có thể dẫn chứng hàng loạt chương trình THTT được phát sóng trên HTV trong thời gian qua đã được “bản địa hóa” theo đúng xu thế của toàn cầu hóa và đáp ứng được yêu cầu định hướng của báo chí cách mạng Việt Nam. Sau đây là những trường hợp nổi bật khi một số chương trình THTT được bản địa hóa theo từng nội dung cụ thể.
* “Bản địa hóa” dựa trên ý thức về quyền lợi tập thể vượt lên trên tự do cá nhân
Một trong những giá trị văn hóa đặc trưng của các nước châu Á trong đó có Việt Nam, là “quyền lợi tập thể được đặt trên quyền lợi cá nhân, hỗ trợ nỗ lực tập thể cần thiết để phát triển nhanh” . Giá trị văn hóa truyền thống này của người Việt Nam được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc và đặc biệt được đặt làm tiêu chí xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng theo tinh thần nhiệm vụ thứ nhất trong phần II về phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, Nghị quyết lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VIII) là “có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung”.
Xuất phát từ các nước phương Tây vốn có hệ tư tưởng dân chủ đề cao giá trị và quyền lợi của cá nhân, các định dạng THTT, nhất là các chương trình tìm kiếm tài năng như Pop Idol, X-Factor, The Voice, So you think you can dance… hay thử thách sức chịu đựng con người như Big Brother, The Survivor… đều hướng khán giả đến chủ nghĩa tự do cá nhân, đề cao giá trị bản thân, cổ vũ cho dân chủ kiểu phương Tây (thể hiện qua những lời nhận xét không khoan nhượng của giám khảo dành cho thí sinh và những đối đáp mang tính phản kháng của thí sinh khi bị nhận xét). Thế nhưng khi được du nhập vào các nước châu Á, những điểm nhấn này vốn tạo nên sức thu hút cho chương trình ở các nước phương Tây lại trở nên khá xa lạ với truyền thống văn hóa của phương Đông mặc dù có thể hấp dẫn những khán giả trẻ tuổi thường có tâm lý hướng ngoại và ham thích điều mới.
Riêng các chương trình THTT được mua bản quyền từ nước ngoài và phát sóng trên HTV7, vấn đề “bản địa hóa” được đặc biệt coi trọng bằng cách bổ sung thêm các đặc điểm văn hóa của người Việt Nam, trong đó ý thức về cộng đồng luôn được chú ý bên cạnh các yếu tố mang tính cá nhân thường thấy trong các chương trình THTT. Điển hình là chương trình “Hành trình kết nối những trái tim” (từ 2008) được phát sóng vào lúc 22g00 thứ ba hàng tuần trên HTV7. Đây là chương trình THTT dạng docu-soap (thể loại tường thuật người thật, việc thật kéo dài nhiều tập) được chuyển nhượng bản quyền từ hãng truyền hình Fuji, Nhật Bản. Format gốc của chương trình có tên Love bus tường thuật hành trình tìm kiếm tình yêu của các bạn trẻ đi chung một chuyến xe buýt ngang dọc khắp nước Nhật. Khi được giới thiệu để triển khai phiên bản Việt Nam, bộ phận thẩm định của HTV đã yêu cầu bổ sung thêm một nội dung vào chương trình về công tác từ thiện và giúp đỡ cộng đồng tại các địa phương mà chuyến xe có dịp đi qua. Ngoài mục đích đi tìm một trái tim để kết nối tình yêu nam nữ, các bạn trẻ còn có nhiều cơ hội để “kết nối trái tim” với tình yêu quê hương, đất nước và đồng bào, nhất là được thể hiện tình cảm với những địa phương và con người ở các vùng còn nhiều khó khăn.
Xem thêm: Xuất Nhập Khẩu Là Gì, Thương Mại Xuất Nhập Khẩu
Yếu tố bổ sung được bản địa hóa này đã thật sự tìm được sự đồng cảm nơi người tham dự và khán giả, tạo sức hấp dẫn cho chương trình. Bằng cách thu hút khán giả trẻ đến với chương trình, mục tiêu định hướng thẩm mỹ cho giới trẻ đã được lồng ghép một cách hài hòa với các yếu tố mang tính giải trí.
* Bản địa hóa bằng sự thông cảm với những cá nhân vượt qua hoàn cảnh khó khăn để vươn lên
Khi được giới thiệu với khán giả Việt Nam vào năm 2005 trên HTV7, chương trình truyền hình thực tế Vượt lên chính mình ngay lập tức đã chiếm được tình cảm của đông đảo khán giả. Đây là một định dạng xuất phát từ Thái Lan với tên gọi tiếng Anh là Freedom (Tự do), được xây dựng nhằm tạo ra cơ hội cho các hộ gia đình nghèo có thể nhận được một khoản tài chính đủ để xóa nợ vay ngân hàng và được cấp thêm vốn để thoát khỏi cảnh nghèo và đổi đời. Điều kiện bắt buộc là họ phải chứng minh được nghị lực vượt khó và kỹ năng nghề nghiệp của mình thông qua những thử thách trong chương trình.
Thành công vượt trội của chương trình có được nhờ sự đóng góp không nhỏ của bản địa hóa mà việc đổi tên chương trình cho phù hợp với tâm lý và tình cảm của người Việt Nam là điểm then chốt. Nếu tên gọi “Tự do” là một khái niệm quá rộng có thể làm liên tưởng đến những điều nằm ngoài nội dung của chương trình và dễ làm cho người tham dự lẫn người xem có cảm giác người tham dự “được trả tự do” khi được xóa nợ, thì Vượt lên chính mình đã đặt vấn đề xóa nợ cho chính người tham dự chương trình phải giải quyết và do đó hoàn toàn có thể tự hào về nỗ lực của chính mình. Tên gọi Vượt lên chính mình đã trở thành một thành ngữ phổ biến trong xã hội khi đề cập đến những trường hợp vượt qua những trở ngại chủ quan từ bản thân để đạt được mục tiêu phấn đấu. Qua việc đặt tên tiếng Việt cho chương trình, văn hóa ứng xử “của cho không bằng cách cho” của người Việt Nam đã được vận dụng hết sức thành công trong việc bản địa hóa một định dạng THTT có nguồn gốc nước ngoài.
* “Bản địa hóa” bằng cách sử dụng các thể loại truyền hình ăn khách làm công cụ giáo dục định hướng
Theo ý kiến của chúng tôi, khi khán giả nhất là khán giả trẻ bị hấp dẫn bởi chương trình truyền hình thì đó là một dấu hiệu tốt, bởi vì khi họ bỏ thời gian xem truyền hình thì sẽ không tốn thời gian vào các phương tiện truyền thông khác nằm ngoài sự kiểm soát, hoặc những sinh hoạt không lành mạnh khác. Việc tận dụng các chương trình ăn khách để lồng váo đó các nội dung mang tính giáo dục thẩm mỹ, định hướng nhận thức là cách làm hiệu quả bên cạnh các chương trình mang tính giáo dục và định hướng truyền thống của ngành truyền hình Việt Nam.
Trong quá trình thẩm định format nước ngoài để tìm các yếu tố khả thi cho việc xây dựng định dạng Việt Nam, HTV rất chú trọng đến vấn đề này nên đã đạt được một số thành công nhất định trong việc phát sóng THTT so với mặt bằng chung của thể loại này tại Việt Nam. Ngay khi mùa thứ thất của chương trình “So you think you can dance – Thử thách cùng bước nhảy” lên sóng HTV7 vào năm 2012, công luận hầu như hoàn toàn đồng tình với cách làm của HTV và đánh giá đó là chương trình THTT hiếm hoi tại Việt Nam được “bản địa hóa” một cách thành công.
Chương trình “Thử thách cùng bước nhảy” (Ảnh: phunuonline.com.vn) |
So với định dạng gốc, HTV đã yêu cầu nhà sản xuất đưa thêm vào chương trình những chi tiết chuyên môn để làm nổi bật bốn vấn đề: Một là các giám khảo chuyên môn sẽ nhiều lần nhắc tới tính nghệ thuật và sự lao động sáng tạo trong nghệ thuật múa, hai là các thí sinh sẽ tập trung trình bày quan điểm của mình theo hướng khẳng định con đường nghề nghiệp mình đã chọn và phấn đấu đạt đỉnh cao trong nghề nghiệp bằng đam mê nghệ thuật và lao động nghệ thuật chân chính; ba là nói không với bất cứ “chiêu trò” thu hút dư luận và bốn là thống nhất quan điểm không cay cú ăn thua trong thí sinh, loại bỏ tính từ “tài năng” ra khỏi danh hiệu quán quân và thay bằng tính từ “được yêu thích nhất”.
Nhận xét về chương trình, nhà báo Hồng Trang của Báo Nhân Dân đã viết: “Năm 2012, Thử thách cùng bước nhảy được xem là chương trình lặng lẽ nhất vì không có bất kỳ sự điều tiếng nào, nhưng cũng là chương trình được công chúng tán thưởng nhất. Người xem không chỉ cảm nhận được tình yêu, đam mê, lao động nghệ thuật của thí sinh, mà còn được theo dõi một cuộc chơi công bằng trên tinh thần cống hiến”.
* Đưa các nét riêng của Việt Nam vào các định dạng đã toàn cầu hóa
Nói theo cách khác, việc đưa các nét riêng của Việt Nam vào các định dạng đã toàn cầu hóa chính là làm cho yếu tố bản sắc nổi bật trên nền hiện đại của chương trình. Các bản sắc văn hóa được dịp thể hiện trong một cấu trúc chương trình hiện đại sẽ có cơ hội vươn ra khỏi tầm ảnh hưởng bản địa để đến với thế giới khi có điều kiện. Ở mùa thứ hai của So you think you can dance – Thử thách cùng bước nhảy, một lần nữa HTV đã yêu cầu nhà sản xuất bổ sung thêm, trong đó yêu cầu đưa các điệu múa dân gian Việt Nam vào chương trình thi đấu của các thí sinh.
Rõ ràng sự thay đổi theo kiểu “bản địa hóa” này đã gây được chú ý nơi các biên đạo nước ngoài. Họ hoàn toàn kinh ngạc trước sức cuốn hút từ sự mềm mại của các thí sinh nữ trên nền bản dân ca quan họ Bèo dạt mây trôi và phấn khích trước điệu Lý ngựa ô khi so sánh với Gangnam style của Hàn Quốc gây sốt thế giới trong năm 2012. Qua các chuyên gia quốc tế cộng tác sản xuất chương trình ở nhiều nơi, chúng ta hoàn toàn có thể hy vọng về sự lan tỏa của bản sắc Việt Nam khi các định dạng THTT toàn cầu hóa được nâng cấp theo kiểu tổng hợp các yếu tố dị biệt sau khi nó đã đi qua nhiều nước khác nhau trên thế giới.
Thay lời kết
Truyền hình thực tế cũng là một sản phẩm của toàn cầu hóa khi nó có đầy đủ các yếu tố cấu thành từ công nghệ sản xuất, phương tiện quảng bá, phương thức kinh doanh, chuyển nhượng đến địa bàn tiêu thụ và tâm lý tiêu thụ. Những người ủng hộ toàn cầu hóa thì thấy ở THTT những cơ hội để làm phong phú làn sóng truyền hình Việt Nam, phục vụ nhu cầu thưởng thức văn hóa của khán giả ở cấp độ toàn cầu và khả năng giới thiệu bản sắc Việt Nam ra thế giới khi trình độ chế tác THTT của Việt Nam được nâng lên tầm cỡ quốc tế. Những người e ngại toàn cầu hóa thì chú ý đến những bất lợi mà THTT đem đến với lo lắng về một “chủ nghĩa đế quốc văn hóa” có thể làm xói mòn các giá trị văn hóa dân tộc.
THTT trên sóng truyền hình Việt Nam đang gây ra những cơn sốt về số lượng khán giả cũng như doanh thu quảng cáo nhưng cũng tiềm ẩn những nguy cơ về làm lệch nhận thức thẩm mỹ cũng như ảnh hưởng không tốt đến văn hóa ứng xử trong giới trẻ. Tuy nhiên, sự phổ biến của THTT là một hiện thực tuân theo lô gic phát triển của ngành truyền hình mà dù muốn hay không chúng ta cũng phải chấp nhận để tận dụng những hệ quả tốt đẹp cũng như cùng nhau giải quyết những tồn tại do nó mang lại để xây dựng sự nghiệp truyền hình Việt Nam phát triển bền vững với những lợi ích thiết thực đem lại cho khán giả. Đài Truyền hình TP.HCM cũng đang góp phần vào sự nghiệp chung của các đất nước cùng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà các hoạt động “bản địa hóa” các chương trình THTT là một trong những trọng tâm hàng đầu.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Chí Bền, cb, (2010),Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Robertson, R. (1995), Glocalization: Time-Space and Homogenity – Heterogenity. In: M. Featherstone, S. M. Lash & R. Robertson, eds. Global Modernities, Sage, London 24-44.
Xem thêm: Routing Number Là Gì – Bank Và Được Tìm Thấy Ở Đâu
3. Waisbord, S. (2004), McTV: Understanding the Global Popularity of Television Formats, Television & New Media, 5(2), 359-383.
Chuyên mục: Hỏi Đáp